Tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại hóa

Tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại hóa

Luận án AZ: Nghiên cứu này chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiện đại hóa hoạt động của các ngân hàng thương mại

1. Các yếu tố bên ngoài ngân hàng

1.1. Hệ thống pháp luật

Lĩnh vực hoạt động của ngân hàng được kiểm soát chặt chẽ về quy định của pháp luật so với các ngành khác. Trong hầu hết các nước, các hoạt động của Ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống quản lý nghiêm ngặt và các khuôn khổ pháp lý đã được phát triển để kiểm soát hoạt động ngân hàng và kiểm soát việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng, chất lượng tín dụng có chất lượng, tình trạng vốn chủ sở hữu và các ngân hàng phát triển cách, mở rộng hoạt động của mình với Mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng dịch vụ cộng đồng. Có bảy lý do chính cho Ngân hàng để trở thành đối tượng của quản lý nhà nước, cụ thể là:

– Đảm bảo an toàn tiết kiệm của công chúng.

– Kiểm soát cung tiền và tín dụng, phục vụ các mục tiêu kinh tế chung của đất nước.

– Tăng cường sự tự tin công chúng đối với hệ thống tài chính và đảm bảo tiết kiệm được tập trung cho đầu tư sản xuất và quá trình thanh toán nhanh chóng và hiệu quả.

– Ngăn chặn các nguồn tài chính tập trung trong tay của một vài cá nhân hoặc tổ chức.

– Cung cấp cho các tín dụng của chính phủ, thuế và các dịch vụ tài chính khác.

– Trợ giúp các nền kinh tế của khu vực có nhu cầu tín dụng đặc biệt (chẳng hạn như các hộ gia đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ, nông nghiệp …) [19].

Các chính sách này ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chính sách cạnh tranh, phá sản, sáp nhập, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng, các quy định về cho vay, bảo hiểm tiền gửi, dự phòng rủi ro tín dụng, các quy định về quy mô vốn của chính được quy định trong pháp luật … Ngân hàng và các quy định hướng dẫn thi hành pháp luật. Ngoài ra, chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, quản lý nợ công, các quy định về dự trữ bắt buộc, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu … của cơ quan quản lý có liên quan như Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính đã ban … cũng thường tác động vào các hoạt động của Ngân hàng.

thứ mười hai. Môi trường kinh tế

Những yếu tố này được tạo ra bởi các giai đoạn chu kỳ kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng của GDP, triển vọng cho doanh nghiệp sử dụng ngân hàng cơ cấu vốn chuyển tiếp giữa các thành phần kinh tế, xu hướng đầu tư và chi thường xuyên của Chính phủ, mức độ ổn định giá cả, lãi suất, cán cân thanh toán và thương mại nước ngoài … Môi trường kinh tế đã luôn đặt áp lực lên ngân hàng để phát triển để đáp ứng nhu cầu không ngừng là từ số lượng và chất lượng của các hoạt động kinh doanh và dịch vụ của Ngân hàng. Đồng thời, sự ổn định cũng như cơ hội để cạnh tranh một lần nữa có thể tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động của Ngân hàng.

Xem thêm: Các chỉ số phản ánh mức độ hoạt động hiện đại hóa ngân hàng thương mại
Đối với các chủ ngân hàng và người kinh doanh ngân hàng hoạt động kinh doanh tại mỗi ngân hàng trong giai đoạn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường kinh doanh. Đây là những yếu tố bên ngoài mà hoạt động kinh doanh tác động của từng ngân hàng nhưng ngân hàng không được kiểm soát tích cực. Tất nhiên, chịu ảnh hưởng bởi những tác động của môi trường kinh doanh cũng như đặc điểm chung của tất cả các lĩnh vực kinh doanh, nhưng có sự khác biệt về bản chất và cường độ. Hoạt động ngân hàng phụ thuộc vào các hoạt động kinh tế nói chung của nền kinh tế xã hội, nhưng trước hết là sản xuất, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm vật chất. Việc cung cấp, lưu hành tiền cũng như các dịch vụ tài chính – tiền tệ nói chung, phụ thuộc chặt chẽ vào việc tái sản xuất của cải vật chất, trong hoạt động của các ngành công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại, tiêu dùng cá nhân … Bất kỳ ý nghĩa biến động của ngành, cả trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng. Do sự tăng trưởng và phát triển hoặc suy thoái trong các lĩnh vực nêu trên trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất, thu nhập, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế, theo hướng tăng hay giảm, và từ đó trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, khả năng trả nợ của các con nợ, mà con nợ của nền kinh tế luôn luôn là Ngân hàng.

1.3. Công nghệ thông tin

Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đang làm việc thường xuyên và liên tục cho các hệ thống ngân hàng. Hoạt động ngân hàng nói chung và công nghệ thông tin nói riêng Ngân hàng hoạt động không thể tách rời của đất nước kinh tế xã hội. Do đó, Ngân hàng công nghệ thông tin thiết bị chi phối bởi các chính sách của công nghệ thông tin quốc gia. Để ngân hàng phát triển công nghệ, nền tảng đầu tiên của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia cần phát triển mạnh. Mặt khác, do tính chất đặc thù của hoạt động Ngân hàng theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương, sự thống nhất của toàn bộ hệ thống là rất cao; vì vậy quá trình kinh doanh, các sản phẩm ứng dụng chỉ phát huy sức mạnh, hiệu quả cao khi một mạng lưới thông tin mạnh mẽ, đồng bộ được kết nối bằng đường truyền tốt; tốc độ cao, dung lượng lớn … và đặc biệt quan tâm đến sự an toàn an ninh thông tin mạng Ngân hàng hệ thống.

1.4. Môi trường văn hóa – xã hội

Các yếu tố môi trường là những vấn đề văn hóa xã hội và tương đối ít thay đổi lâu dài, ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của Ngân hàng là văn hóa tiêu dùng, thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng trong cuộc sống sống, thực hành tiết kiệm, đầu tư, ứng xử trong giao tiếp quan hệ, cuộc sống mong đợi, các cộng đồng tôn giáo, dân tộc , xu hướng lao động … các yếu tố môi trường xã hội cũng bao gồm nhân khẩu số lượng và yếu tố tự nhiên yếu tố …

Yếu tố dân số: Đây là yếu tố cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, thu nhập, mức sống, … Tỷ lệ tăng trưởng dân số, quy mô dân số, di động dân số giữa các vùng kinh tế, đô thị và nông thôn. Yếu tố nhân khẩu có tác động đáng kể về khoa học và chiến lược khoa học của các ngân hàng thương mại.

Các yếu tố tự nhiên: sự khan hiếm các nguồn lực, khả năng để sản xuất các hàng hóa trên các lĩnh vực tự nhiên khác nhau, ô nhiễm môi trường, thiếu năng lượng hoặc chất thải của tài nguyên thiên nhiên có thể ảnh hưởng đến quyết định danh mục cho vay của Ngân hàng.

1.5. Môi trường quốc tế

Sự toàn cầu hóa của nền kinh tế đã dẫn đến sự hội nhập giữa các nền kinh tế trong khu vực và trên toàn cầu. Do đó, các ngân hàng cần phải theo dõi và hiểu các xu hướng kinh tế toàn cầu, phát hiện tiềm năng thị trường, tìm hiểu những thay đổi về chính trị và kinh tế thông tin về công nghệ mới, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế.

Dưới ảnh hưởng của công nghệ và toàn cầu hóa, Ngân hàng cần đa dạng hóa dịch vụ của mình và mở rộng bằng cách tiếp cận thị trường mới trong và ngoài nước. Đa dạng hóa và mở rộng điều kiện thị trường để hạn chế rủi ro và cung cấp cho KH một hình ảnh ngân hàng toàn diện. Xu hướng này được đưa ngân hàng trở thành một định chế tài chính đa dạng.

Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngày càng trở nên hung hăng hơn là Ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục đầu tư của các dịch vụ. Các ngân hàng, các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, các hiệp hội tiết kiệm … đang cạnh tranh để xác định tiết kiệm và thị trường dịch vụ. Hành động áp lực cạnh tranh là động lực để tạo ra sự phát triển của các dịch vụ trong tương lai. Cạnh tranh thúc đẩy Ngân hàng để cung cấp các tiện nghi tốt hơn cho kế hoạch. Công chúng có thu nhập cao hơn từ tiền tiết kiệm của họ. Nhiều loại hình tài khoản tiền gửi đang phát triển. Lãi suất cho vay và điều kiện vay cũng tự do hơn. Cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước để áp dụng công nghệ mới, thay đổi tư duy về việc tuyển dụng, tiền lương, quảng cáo và đặc biệt chú ý đến chất lượng của dịch vụ. Cạnh tranh tạo ra sự phân biệt giữa lãi suất của Ngân hàng. Mật độ Bank, sự tiện lợi khi giao dịch với các ngân hàng và tăng quy mô thu nhập đã dẫn đến sự di cư của khoa học ngày càng tăng, làm tăng sự nhạy cảm của tài sản và các nguồn lực đối với lãi suất. Điều này, một mặt làm tăng tính thanh khoản của tài sản và các nguồn tài nguyên, trên bờ nguy Mặt khác buộc phải đối mặt với lãi suất cao hơn.

2. Các yếu tố trong hệ thống ngân hàng

2.1. Chính sách và Chiến lược hoạt động

Chiến lược đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, vì nó quyết định hướng lâu dài của hành động, cung cấp một khuôn khổ cho tư duy và hành động của chính quyền trong thời hạn Ngân hàng ngắn và dài, cũng như tạo ra những nền tảng cơ bản cho sự xây dựng các quyết định chính sách và doanh nghiệp. Việc quản lý ngân hàng thương mại phải phân tích môi trường hiện tại, tương lai dự báo môi trường, xác định nhiệm vụ, mục tiêu và chương trình chiến lược, phát triển tổ chức, thực hiện đánh giá các mục tiêu và chương trình chiến lược thực tế. Tất cả các công việc này cho phép Ngân hàng để hiểu được mục đích và định hướng kinh doanh; tăng quyền tự chủ và thích nghi với hoàn cảnh, có thể thay đổi các phương pháp và cách thức quản lý khi cần thiết; dự đoán vị trí tương lai của Ngân hàng cũng như nắm bắt các cơ hội và đối phó với những thách thức có thể xảy ra.

Trong khi chiến lược là một kế hoạch dài hạn là chính sách toàn diện là các nguyên tắc hướng dẫn, thủ tục phương pháp, quy tắc, hình thức và công việc hành chính được thiết lập để hỗ trợ và thúc đẩy công việc theo mục tiêu đề ra. Vì vậy, chính sách thực thi công cụ chiến lược, là cơ sở cho sự kiểm soát của quản lý. Xây dựng và hoàn thiện chính sách để cung cấp các quy tắc chung, suy nghĩ và hành động theo hướng dẫn ở tất cả các cấp quản lý trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ chiến lược trong từng cấp, từng đơn vị, lĩnh vực hoạt động. Ngoài ra, chính sách này cũng làm cho một đóng góp quan trọng đối với mục tiêu trở thành cụ thể và dễ hiểu hơn.

Quyết định chính sách chiến lược và hoạt động trên các phân bổ nguồn lực trong các ngân hàng điều hành mai.Cac Ngân hàng luôn phải xem xét lại sự phân bố định hướng chung của các quỹ để phân tích cấu trúc tài chính của Ngân hàng trong việc thực hiện chiến lược kinh doanh. Cấu trúc tài chính ảnh hưởng đáng kể chi phí huy động vốn và lợi nhuận lãi suất. Hơn nữa, các chiến lược và chính sách mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng sẽ quyết định cơ cấu thu nhập của ngân hàng. Hai yếu tố rất quan trọng trong mục tiêu hoạt động của lợi nhuận ngân hàng.

2.2. Người làm công

Chất lượng của các lãnh đạo và quản lý, trình độ chuyên môn, truyền thông, trách nhiệm, nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp của lực lượng lao động hoạt động, không khí nơi làm việc, người lao động chính sách việc làm, kinh nghiệm và năng động của nhân viên .., tất cả đều là những yếu tố thúc đẩy Ngân hàng đạt được mục tiêu. Trong việc quản lý và hoạt động của các ngân hàng thương mại, yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong sự thành công hay thất bại.

Ngành ngân hàng Manpower có yêu cầu cụ thể về khả năng tư duy và phẩm chất cần thiết như sự trung thực, siêng năng, cẩn trọng, khả năng sử dụng ngoại ngữ và vi tính tốt, khả năng giao tiếp tốt và sức mạnh dẻo dai thể chất, độ dẻo dai.

2.3. Kích thước, kích thước, quy mô

Kích thước của các ngân hàng thương mại nói chung được công nhận thông qua vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Vốn chủ sở hữu là một nguồn lực cơ bản để chứng minh sức mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại, có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng bắt đầu hoạt động, đảm bảo khả năng tồn tại của các ngân hàng mà quyết định quy mô hoạt động, chiến lược đầu tư và sự an toàn của các hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng trong thị trường. Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại có chức năng quan trọng như chống đỡ rủi ro cho người gửi tiền. Do đó, vốn chủ sở hữu tối thiểu luôn là các cơ quan có liên quan kiểm soát NH. Chỉ số nhiều hoạt động của các ngân hàng thương mại được gắn với vốn chủ sở hữu là mức tối đa sự đóng góp, tín dụng tối đa cho một S … Low Equity cũng gây ra gánh nặng tài chính rất lớn cho đất nước khi các ngân hàng bị phá sản. Giới hạn các ngân hàng cổ phần thấp mở rộng dịch vụ và quy mô hoạt động. Sự phát triển của thị trường tài chính, nhu cầu mở rộng chi nhánh, thành lập các công ty con, và đối mặt với những rủi ro, buộc các ngân hàng phải tăng vốn. Vì vậy, giám đốc điều hành, điều hành NH, tổ chức khoa học và quản lý lo ngại về khả năng của Ngân hàng để duy trì một mức độ đảm bảo vốn chủ sở hữu. Mỗi quản trị NH cổ phần khác nhau có phương pháp, với các ngân hàng tham gia an toàn là tiêu chí để hướng dẫn các hoạt động kinh doanh, mà còn các ngân hàng phải chấp nhận rủi ro để liên kết gần gũi hơn với các cơ hội sinh lợi nhiều hơn. Tuy nhiên, bất chấp những rủi ro như thế nào về vấn đề an toàn vẫn là một vấn đề cần được quan tâm.

Trong khi vốn chủ sở hữu là một nguồn tài nguyên cơ bản đóng một vai trò quan trọng đối với một ngân hàng bắt đầu hoạt động, đảm bảo khả năng tồn tại và đối phó với những rủi ro của các ngân hàng, các mô và cơ cấu tổng tài sản khả năng huy động tiền gửi và tiền vay mượn trên thị trường tài chính tiết lộ, quy mô tín dụng , thanh khoản, lãi suất Lãi cơ cấu tài sản, quy mô tài chính, và khả năng tạo ra lợi nhuận của NH … quầy ưu Ngân hàng hình ảnh so với các ngân hàng đối thủ.

Quy mô của các ngân hàng thương mại có tác động phổ quát cho các chiến lược kinh doanh của Ngân hàng cũng như các tác động cụ thể để đầu tư công nghệ chiến lược của ngân hàng. Như vậy, quy mô và hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng, tương tác lẫn nhau. Trên một mặt kích thước của NH quyết định quy mô và hoạt động của các loại ngân hàng. Mặt khác, các hoạt động của các ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng đến kích thước của Ngân hàng.

2.4. Cơ cấu tổ chức

Mô hình tổ chức của một ngân hàng được thiết kế để thực hiện có hiệu quả các hoạt động của các ngân hàng. Trải rộng trên thời gian, các hoạt động của các ngân hàng tăng tính đa dạng, hình thành ngân hàng của tổ chức phải luôn luôn đổi mới và phát triển phù hợp. Tuy nhiên, hai yếu tố này là quy mô vốn ngân hàng và các quy định ngân hàng trung ương về các hoạt động của các ngân hàng ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu tổ chức của ngân hàng.

Quy mô của các ngân hàng vốn sẽ quyết định hướng kinh doanh, hoạt động của các ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng có thể thực hiện, đối tượng S mà các ngân hàng có thể phục vụ … để thực hiện các hoạt động này. Do đó, các ngân hàng phải lựa chọn và xây dựng một mô hình thích hợp.

Các quy định của nhà nước về điều chỉnh và kiểm soát hoạt động của các ngân hàng theo mục tiêu an toàn trong hoạt động của các ngân hàng và nền kinh tế. Việc nới lỏng các hạn chế hoặc quy định của Nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Tuy nhiên, luật ít can thiệp cụ thể trong tổ chức của ngân hàng, mà thường được thừa nhận những gì các ngân hàng thực hiện để phục vụ cho các hoạt động của nền kinh tế và không gây ra những rủi ro tiềm ẩn nên tình hình bất ổn cho nền kinh tế.

NH là một doanh nghiệp. Tùy thuộc vào kích thước của hoạt động, quyền sở hữu và hoạt động chiến lược mà mỗi ngân hàng phải tìm các hình thức phù hợp của tổ chức. Tổ chức bộ máy của các ngân hàng lớn thường bao gồm nhiều bộ phận (đơn vị) trong trung và các ngân hàng nhỏ.

Ngân hàng lớn thường có nhiều chi nhánh, sở hữu nhiều công ty, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau và thị trường, và có thể có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Ngân hàng lớn thực hiện các hoạt động ngân hàng bán buôn với S lớn (Tổng công ty, tập đoàn kinh tế …). Do đó, cơ cấu tổ chức của ngân hàng phải được chuyên môn đánh giá cao. Tổ chức bộ máy của các ngân hàng lớn cũng được phản ánh trong cơ cấu tổ chức của các đơn vị thành viên. Chi nhánh của các ngân hàng lớn, gồm các phòng chuyên môn như các công ty tín dụng, tín dụng tiêu dùng, thẩm định và bảo lãnh phát hành, kế toán và thanh toán quốc tế, ủy thác, …

Các ngân hàng nhỏ thường ít hoặc không có chi nhánh hoặc các hoạt động trong phạm vi địa phương, hoạt động kém đa dạng. Để thích ứng với quy mô nhỏ, kinh doanh lợi nhuận thấp, các ngân hàng nhỏ thường được tổ chức bộ máy gọn nhẹ, mỗi phòng có thể giữ một số nhiệm vụ, chẳng hạn như văn phòng tín dụng có các khoản vay tiêu dùng cho vay doanh nghiệp vừa, đã phân tích … NH dự án nhỏ đòi hỏi mỗi cán bộ phải linh hoạt . So với các ngân hàng lớn, các liên kết giữa các bộ phận của các ngân hàng nhỏ chặt chẽ hơn, khả năng kiểm soát của ban giám đốc cho các bộ phận cao hơn.

Tổ chức bộ máy của NH liên tục thay đổi trước khi thay đổi của môi trường kinh doanh. Sự phát triển của các tổ chức tài chính mới, sự ra đời của các sản phẩm ngân hàng, thay đổi nhu cầu tiết kiệm hoặc mượn, sự phát triển của công nghệ, quá trình đa dạng hóa, toàn cầu hóa tạo ra các kết nối liên kết mới … đã dẫn đến sự thay đổi của bộ máy NH.

Tổ chức bộ máy nhằm mục đích chủ yếu là để tăng năng suất, dẫn đến tăng doanh thu, giảm nguy cơ các ngân hàng. Mỗi chi nhánh, công ty con, tổ chức bộ phận đang làm tăng chi phí lao động, chi phí quản lý, chi phí đầu tư … Hơn nữa, nếu tách nhiệm vụ không rõ ràng có thể dẫn đến sự chồng chéo phòng. Các tổ chức phải đảm bảo bộ máy quyền và kiểm soát hiệu quả của ban giám đốc độc lập tương đối tăng trung bình của các thành viên [19].

2.5. Tech NH

Các cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ trên tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế và xã hội. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin trở thành một yếu tố trong việc bứt phá cạnh tranh của ngành ngân hàng. Các ngân hàng hiện nay có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều các thiết bị và công nghệ hiện đại để tăng năng suất, chất lượng và hiệu suất. Bên cạnh đó, các kỹ thuật cách mạng khoa học đã thúc đẩy sự phát triển của kỹ thuật ngân hàng và xu hướng liên kết thương mại đa mục đích chia sẻ hệ thống công nghệ. Đây là một nguy cơ yếu tố tiềm năng cho hệ thống ngân hàng, bởi vì nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng vốn có thế mạnh cụ thể. Hơn nữa, việc giảm tương đối của lao động và chi phí cố định tăng do hậu quả của các hoạt động của các ngân hàng dưới ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ.

Tóm lại, các yếu tố tác động của môi trường bên ngoài, cả vĩ mô và vi mô thường rất phức tạp, đa dạng, tác động đa chiều đến hoạt động của các ngân hàng thương mại …

Tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại hóa

Bình luận về bài viết này